Bóng đá tổng lực Hà Lan: Johan Cruyff 'thay đổi thế giới' năm 1974

Johan Cruyff khi gặp Argentina ngày 26/6/1974

Nguồn hình ảnh, Getty Images

Chụp lại hình ảnh, Johan Cruyff khi gặp Argentina ngày 26/6/1974

Đó là một mùa hè diễn ra trong làn sương mù màu cam. Một trong những người Hà Lan có mái tóc bồng bềnh đã giúp thương hiệu bóng đá mang tính cách mạng của họ lan tỏa khắp thế giới, chinh phục trái tim và khối óc của công chúng. Đó là mùa hè của Johan Cruyff. Ít nhất, gần như là vậy. 

Khi ông ở Tây Đức vào năm 1974, Cruyff xem mỗi trận đấu như điệu nhảy hơn là một cuộc đấu tay đôi, mỗi động tác của ông đều hấp dẫn. 

Chỉ cần nhắc đến tên ông ấy, bạn sẽ nhớ về sân Westfalenstadion của Dortmund, ngày 19 tháng 6, vào phút thứ 24 - khoảnh khắc Cruyff thực hiện một pha xoay người, đánh lừa Jan Olsson của Thụy Điển và đi vào truyền thuyết bóng đá. 

Cruyff đã viết trong cuốn tự truyện My Turn: “Cách ngoặt bóng đó không phải là điều tôi từng làm trong quá trình luyện tập. Ý tưởng đến với tôi trong nháy mắt, bởi vì tại thời điểm cụ thể đó, đó là giải pháp tốt nhất." 

Cruyff là gương mặt đại diện của Bóng đá tổng lực - một phong cách chơi mà thành công nở rộ nhờ sự hiểu biết tập thể, gần như thần giao cách cảm về không gian và chuyển động giữa tất cả 11 cầu thủ - nhưng ông cũng là ngôi sao duy nhất có thể phá vỡ khuôn mẫu.

Cruyff là trung tâm của một đội bóng thu hút trí tưởng tượng bằng thứ bóng đá sống động và rực rỡ như những chiếc áo màu cam của họ. 

“Tôi khám phá ra thứ bóng đá hoàn toàn mới,” huấn luyện viên Arsene Wenger nhớ lại.

"Họ đã đi trước về mặt chiến thuật.” 

Đó là một khái niệm bắt đầu với Ajax, câu lạc bộ chỉ cách ngôi nhà thời thơ ấu của Cruyff ở Amsterdam năm phút đi bộ.

'Jopie' tham gia khi mới 10 tuổi, mẹ anh nhận công việc dọn dẹp ở đó sau cái chết của cha anh, và chính Ajax đã giúp anh rời trường năm 15 tuổi bằng cách giả tuổi để đề nghị anh một hợp đồng "đặc biệt". 

Dưới sự dẫn dắt của Rinus Michels vĩ đại, Cruyff đã trở thành một phần không thể thiếu của đội bóng sẽ tiếp tục thống trị bóng đá châu Âu trong thời kỳ bùng nổ của các câu lạc bộ Hà Lan. 

“Michels khiến chúng tôi chạy ít hơn và đảm nhận vị trí của nhau, đó là một cuộc cách mạng,” Ruud Krol, cựu hậu vệ Ajax và Hà Lan, nói với Uefa. 

"Đó là lần đầu tiên có một tầm nhìn hoàn toàn khác về bóng đá. Bóng đá tổng lực đã lan rộng khắp thế giới.” 

Đến năm 1973, Cruyff, sắp giành Quả bóng vàng thứ hai, là một ngôi sao của Ajax và là thần tượng của giới trẻ Hà Lan vào thời điểm văn hóa và xã hội thay đổi.

Cruyff đeo băng đội trưởng của Ajax, nhưng trong một trại huấn luyện mùa hè, đội đã bầu Piet Keizer làm đội trưởng.

Tức giận, Cruyff rời Ajax để gia nhập Michels ở Barcelona với mức giá kỷ lục thế giới lúc bấy giờ là 922.000 bảng và giúp đội bóng xứ Catalan giành chức vô địch La Liga đầu tiên sau 14 năm.

Nói thẳng ra, thành tích vượt qua vòng loại của các giải đấu lớn của Hà Lan là rất kém thời ấy. 

Họ đã không lọt vào vòng chung kết World Cup kể từ trước Thế chiến thứ hai và chưa bao giờ góp mặt tại Giải vô địch châu Âu. 

Ngay cả đối với giải đấu năm 1974, họ suýt chút nữa đã rớt vòng loại. Nhưng họ qua được dựa vào một quyết định việt vị gây tranh cãi trong trận đấu cuối cùng với Bỉ. 

Huấn luyện viên người Czech Frantisek Fadrhonc sau đó bị thay thế bởi huấn luyện viên Rinus Michels. 

Đội hình của Michels chủ yếu bao gồm các cầu thủ có mối liên hệ với Ajax và những người đến từ Feyenoord, đội đã giành cúp châu Âu năm 1970.

Chỉ một tuần trước khi World Cup bắt đầu, họ đã có chiến thắng 4-1 trước Argentina.

“Bóng đá tổng lực đòi hỏi những cá nhân tài năng hoạt động trong một tập thể kỷ luật,” Cruyff, người có ảnh hưởng rất lớn đến việc lựa chọn đội bóng, nói.

"Bóng đá tổng lực, ngoài chất lượng của các cầu thủ, chủ yếu là vấn đề về khoảng cách và vị trí. Khi bạn có khoảng cách và đội hình phù hợp, mọi thứ sẽ đâu vào đấy."

Hà Lan mở màn chiến dịch World Cup đầu tiên sau 36 năm, gặp Uruguay tại Hannover. 

Ở Hannover, Cruyff là mục tiêu của một số pha xử lý thô bạo của người Uruguay nhưng đã đưa Hà Lan đi tiếp.

Bốn ngày sau, Hà Lan hòa không bàn thắng với Thụy Điển. 

Nhưng đó lại là một trận đấu được nhớ đến với một trong những khoảnh khắc chói sáng.

Trong pha bóng phút thứ 23, Cruyff bị Olsson kèm sát, nhưng bằng động tác ngoặt vừa nhanh, vừa bất ngờ, tiền vệ 27 tuổi đã nhẹ nhàng thoát khỏi Olsson.

Ngày 23/6, ở trận cuối vòng bảng, Hà Lan tự tin thắng Bulgaria 4-1. 

Thứ bóng đá của Hà Lan đã thu hút người hâm mộ.

Thể thức giải đấu chứng kiến ​​các đội tiến vào vòng bảng thứ hai, với việc Hà Lan vượt qua Argentina trong trận đầu tiên - bàn thắng mở tỷ số phản ánh hoàn hảo phong cách ngoạn mục của họ. 

Hà Lan giành lại quyền kiểm soát bóng trong phần sân của Argentina và Cruyff đã lấy được đường chọc khe khéo léo của Wim van Hanegem trước khi vượt qua thủ môn Daniel Carnevali và đưa bóng vào lưới trống.

Hà Lan thắng Argentina 4-0 với bàn thứ tư cũng là của Cruyff phút 90.

Hết tháng Sáu, sang tháng Bảy, Hà Lan tiếp tục chiến thắng 2-0 trước Đông Đức, và chuẩn bị cho trận bán kết với đương kim vô địch Brazil.

Vào chung kết

Đây là một Brazil không có Pele, người đã rời đội tuyển quốc gia vào năm 1971. 

Hiệp một không có tỉ số. Nhưng sau giờ nghỉ giải lao, Cruyff đã chuyền bóng để Neeskens vượt qua thủ môn Emerson Leao, ghi bàn đầu tiên. 

Hà Lan chỉ cần một trận hòa để đi tiếp, nhưng họ đã chắc suất vào chung kết khi Cruyff ấn định 2-0 ở phút 65.

Cruyff viết: “Tất cả đã kết hợp với nhau trong trận đấu với Brazil. Cho đến lúc đó, không ai thực sự biết chúng tôi giỏi như thế nào, và trận đấu với Brazil có lẽ là thời điểm bạn có thể nói rằng đó là Bóng đá tổng lực.”

Chung kết gặp Tây Đức diễn ra ngày 7 tháng 7 tại Sân vận động Olympic ở Munich.

Đối với nhiều người ở Hà Lan, sự chiếm đóng của Đức trong chiến tranh vẫn mang ý nghĩa văn hóa to lớn. 

Tuy nhiên, chính người Hà Lan đã vào đến trận chung kết với tư cách là ứng cử viên được yêu thích nhất.

Nhưng Cruyff đã không ngủ ngon vào đêm trước trận chung kết và thay vào đó, ông ngồi hút thuốc trong phòng.

Đội chủ nhà đã bị la ó trong một khởi đầu không thuyết phục của giải đấu với thất bại trước láng giềng Đông Đức.

Trong trận chung kết, Tây Đức ngay lập tức bị người Hà Lan cho choáng váng khi Cruyff chạy chỗ dâng cao, luồn lách vào vòng cấm và bị đốn ngã. 

Neeskens ghi bàn từ chấm 11m ngay phút thứ hai, giúp các học trò của Michels có một khởi đầu hoàn hảo.

Hà Lan bắt đầu cố gắng làm bẽ mặt đội chủ nhà bằng thứ bóng đá tuyệt hảo nhưng lại không ghi được thêm bàn nào.

Bất chấp việc họ khởi đầu trận đấu chậm chạp, Tây Đức cũng là một bên chơi rất tốt.

Phút 25, Paul Breitner ghi bàn gỡ hòa từ chấm 11m, và đó là trận chung kết của Đức.

Khi Hà Lan cố gắng giành lại quyền kiểm soát, đội trưởng Cruyff bị vây chặt, và không thể tìm thấy khoảng trống. 

Anh bị Berti Vogts đối xử thô bạo, người cuối cùng đã bị phạt thẻ vàng, nhưng sau đó Cruyff cũng bị thẻ vàng vì tranh cãi với trọng tài Jack Taylor ở hiệp một. 

Một Cruyff kiệt quệ về tinh thần và thể chất không thể tìm lại ngọn lửa của mình.

Gerd Muller ghi bàn phút 43, ấn định tỉ số 2-1 cho Tây Đức. 

Cruyff viết: “Khi tất cả kết thúc, tất nhiên là có một cảm giác vô cùng thất vọng. Bạn biết bạn là người giỏi nhất thế giới, nhưng bạn đã không giành được giải thưởng."

Khi giải đấu kết thúc, Cruyff đã là một siêu sao toàn cầu và cuối năm đó đã giành được Quả bóng vàng thứ ba trong vòng bốn mùa giải.

Nhưng năm 1974 là kỳ World Cup duy nhất của ông.

Cruyff đã giúp Hà Lan đủ điều kiện tham dự giải đấu năm 1978 tại Argentina nhưng đã quyết định không thi đấu.

Theo nhiều cách, sự việc đã thêm vào huyền thoại Cruyff.

Cruyff, trong bốn tuần trên đấu trường toàn cầu, là một cầu thủ kiêm huấn luyện viên, người đã mang đến cho môn thể thao này một triết lý mới.

Ông đã để lại một di sản tồn tại rất lâu trong bóng đá thế giới.